Tất cả học viện phải thực hiện kê đơn thuốc điện tử trước ngày 10/10
Bộ Y tế yêu cầu bệnh viện phải thực hiện kê đơn thuốc điện tử trước ngày 10/1, là lần thứ ba được lùi lại trình bày việc phát triển khai thuế chậm.
Lộ trình phát triển kê đơn điện tử được Bộ Y tế đưa ra trong Thông tin mới về quy định đơn thuốc và việc kê đơn thuốc hóa dược, sản phẩm sinh học trong điều trị ngoại trừ căn cứ , có hiệu lực từ ngày 1/7. Theo đó, các bệnh viện phải thực hiện kê đơn điện tử trước ngày 10/1/2025, còn các cơ sở chữa bệnh khác phải hoàn thành trước ngày 1/1/2026.
Như vậy, đây là Bộ Y tế lùi lại trình bày này. Lần gần đây nhất, thời hạn dành cho nhóm cơ sở chữa bệnh được xác định tại thông tin tư 04/2022 là ngày 30/6/2023 cơ sở phải liên thông đơn thuốc.
Đơn thuốc điện tử là một cấu phần rất nhỏ và tất yếu phải có trong bệnh án điện tử. Ngắn gọn hơn, đơn thuốc điện tử còn phát sinh tại cơ sở y tế chữa bệnh cho người không điều trị nội trú và không có bệnh. Chỉ khi sử dụng đơn thuốc điện tử rộng rãi trên phạm vi toàn quốc mới được đảm bảo giám sát quản lý hoạt động kê đơn thuốc và bán thuốc theo đơn tới từng cơ sở y tế.
Hiện nay, Bộ Y tế đã xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thuốc đơn quốc gia giúp quản lý đơn thuốc minh bạch. Trong đó, hệ thống quản lý thuốc kê đơn có đầy đủ mã cơ sở chữa bệnh, mã bác sĩ, mã đơn thuốc – những dữ liệu này được liên thông, tập trung trên hệ thống quản lý thuốc kê đơn. Dự kiến, mỗi năm hệ thống này có thể lưu trữ tới 600 triệu đơn thuốc.
Ngày 6/7, ông Nguyễn Hữu Trọng, Tổng Thư ký Hội Tin học y tế Việt Nam, cho hay làm việc khai Hệ thống thông tin quốc gia quản lý kê đơn thuốc và bán thuốc theo đơn mục thông thông tất cả đơn thuốc được kê từ tất cả cơ sở y tế (công và tư) trên phạm vi toàn quốc với mã định danh công cụ của bác sĩ, mã danh mục cơ sở chăm sóc bệnh bệnh và mã số cho đơn thuốc về kho tổng hợp của Bộ Y tế.
Trên cơ sở đó, hệ thống sẽ chia sẻ đơn thuốc (được người bệnh cho phép cơ sở bán lẻ thuốc) với từng phần mềm của từng cơ sở bán lẻ, để cơ sở thực hiện công việc cung cấp bán thuốc theo đơn. Hệ thống tái sinh tiếp theo nhận báo cáo số lượng đã cung cấp, bán trên từng đơn thuốc. Từ đó tránh được tình trạng người bệnh mua thuốc với đơn thuốc không minh bạch (đơn kê tay không xác thực không rõ nguồn gốc); mua thuốc nhiều lần với đơn thuốc đã bán hết số lượng hoặc mua thuốc với đơn đã hết hạn.
Trước đây, việc sử dụng đơn thuốc giấy rất khó có thể quản lý được tính minh bạch của mỗi đơn thuốc cũng như việc bán thuốc theo đơn. Còn nhiều điều bất lợi khi kê đơn thuốc giấy dù kê bằng máy tính trên phần mềm hay viết tay trên cửa sổ y liên. Cụ thể, đơn thuốc giấy không xác định là tính chất chính xác của đơn, có thật hay không, người kê đơn hay cơ sở sản xuất đơn có đủ thẩm quyền hay không.
Bên cạnh đó, đơn thuốc giấy cũng không thể xác nhận được cập nhật trạng thái đơn (đã bán/mua thuốc toàn phần hay một phần), dẫn đến tình trạng người dân sử dụng đơn thuốc nhiều lần, cơ sở bán độc bán thuốc nhiều lần cùng một đơn. Nhiều trường hợp, chữ bác sĩ trên đơn thuốc kê tay như “đối kháng” người bệnh, dược sĩ, điều này có thể dẫn đến việc bán sai loại thuốc, dùng sai cỏ, ảnh hưởng đến sức khỏe.
Tuy nhiên, ông Trọng nói thêm rằng hiện nay Hệ thống mới ghi nhận có khoảng 12.000 cơ sở chữa bệnh các loại thuốc hình thực hiện liên thông đơn thuốc thường xuyên trên tổng số khoảng trên 60.000 cơ sở đang hoạt động trên toàn quốc. Rất nhiều tuyến bệnh cuối cùng vẫn chưa liên kết thuốc hoặc chỉ liên thông đơn thuốc bảo hiểm, còn thuốc chữa bệnh đơn thuốc theo yêu cầu không liên thông.
Tổng hợp cơ sở chữa bệnh bệnh tư nhân chưa thực hiện liên thông thuốc đơn (Khoảng 40.000 cơ sở chưa liên thông). Rất nhiều cơ sở bán thuốc lẻ, kể cả các nhà thuốc trong bệnh viện chưa thực hiện bán thuốc theo đơn bằng mã đơn thuốc điện tử (trong tổng số hơn 218 triệu đơn thuốc liên thông chỉ có hơn 3,6 triệu đơn ngoại trừ đã được báo cáo bán từ cơ sở bán lẻ thuốc).
Hiện rất nhiều cơ sở chữa bệnh vẫn kê đơn thuốc trên giấy, thậm chí chí chí đơn không rõ nguồn gốc, kê đơn trên ứng dụng nhưng không đúng chuẩn hoặc kê đơn trên phần mềm nhưng không liên quan đến hệ thống.

Nhân viên y tế tại nhà thuốc Bệnh viện Quân y 175 phát thuốc cho bệnh nhân. Ảnh: Quỳnh Trần
Theo ông Trọng, việc phát triển kê kê và liên thông đơn thuốc điện tử từ phần mềm cơ sở khám chữa bệnh về Hệ thống thông tin quốc gia gia gia quản lý kê đơn thuốc và bán thuốc theo đơn là “khó khó khăn”. Các phần mềm chủ động thực hiện và không tạo thêm quy trình mới nào trong công việc chữa bệnh của bác sĩ. Nhập mã đơn thuốc điện tử vào phần mềm quản lý cơ sở bán lẻ thuốc để bán thuốc theo đơn cũng có lợi và tiết kiệm thời gian khi mỗi cơ sở thực hiện bán thuốc.
Tuy nhiên, dù đã có đủ cơ sở pháp lý song việc phát triển việc khai thác này vẫn còn chậm, làm nhiều yếu tố. Trong đó, cơ sở nghề nghiệp hướng dẫn đào tạo chưa được thực hiện; thanh kiểm tra giám sát đô thị thực hiện các cơ sở quản lý nhà nước chưa thường xuyên và đầy đủ. Đặc biệt, chưa có cơ sở xử lý nào được đề xuất xử lý chính cho cơ sở chữa bệnh và bán thuốc đều có chế độ chính.
Về phía cơ sở hành nghề y dược, có rất nhiều mối mối ở tâm lý “sợ minh bạch” sợ “được quản lý” từ đó dẫn đến việc làm dễ dàng phát hiện ra các vi phạm hành nghề. Ví dụ như không bán thuốc chui tại phòng khám được, không kê đơn thuốc hoặc không đúng thẩm quyền hay với cơ sở bán thuốc không tự ý bán thuốc khi không có đơn thuốc… nên việc thực thi càng chậm. Đối với các bệnh viện lớn, thiếu động lực tài chính (làm việc không có lợi ích gì thêm), thiếu thanh kiểm tra nên khối cơ sở dữ liệu này cũng chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đủ.
Vì vậy, ông Trọng cho rằng cần giám sát việc bán thuốc điện tử theo quy định, đồng thời tuyên truyền truyền bá dân mua thuốc theo đơn. Chính phủ cần cấm hoặc sửa đổi bổ sung các chế độ xử lý đủ sức mạnh để chữa bệnh và cơ sở bán thuốc phải thực hiện.