Buổi tối hôm ấy, làng xóm đang yên tĩnh thì tiếng choang vỡ vang lên từ sân nhà tôi. Chạy ra ngoài, tôi thấy chú Dư – hàng xóm sát vách – đang lảo đảo, tay cầm chai rượu dở, dưới chân là mảnh vỡ của cái bát cổ mà ông bà nội tôi để lại. Cái bát ấy không phải đồ quý giá gì về tiền bạc, nhưng với gia đình tôi, nó là kỷ vật duy nhất còn sót lại sau chiến tranh.
“Ôi… xin lỗi… chú trượt chân… tưởng rác…” – chú Dư lắp bắp, rồi ngồi phệt xuống thềm, mùi rượu bốc lên nồng nặc.
Tôi vừa tức giận vừa ngỡ ngàng. Nhưng chưa kịp nói gì, mẹ tôi đã hét toáng lên từ trong nhà:
“Cái bát ấy… là vật trấn giữ của gia tộc đấy! Nó mà vỡ là điềm chẳng lành!”
Tôi quay lại nhìn mẹ, định trấn an thì thấy bà mặt tái mét, tay run rẩy. Đêm đó, bà không ngủ. Còn tôi, trong giấc mơ, thấy ông nội đứng bên giếng, khuôn mặt không rõ nét, chỉ nghe tiếng ông khàn khàn: “Cái bát vỡ rồi… không ai cản được nữa…”
Chỉ một ngày sau, những điều kỳ lạ bắt đầu xảy ra. Chú Dư tỉnh dậy với những vết xước dài trên cánh tay mà không rõ vì sao có. Cây cau trước nhà tôi héo rũ dù hôm trước còn xanh tốt. Mẹ tôi bắt đầu nói mê lúc nửa đêm, luôn miệng nhắc đến “người đàn bà mặc áo nâu đứng đầu ngõ”…
Từ hôm cái bát vỡ, nhà tôi như có gì đó thay đổi. Không khí lúc nào cũng lạnh hơn thường lệ, dù đang giữa mùa hè. Ban đầu tôi nghĩ chắc do mình quá nhạy cảm, nhưng rồi ngay cả em trai tôi – thằng Hải vốn lì lợm – cũng bảo:
“Chị ơi, đêm qua em thấy có người đứng ngoài cửa sổ nhìn vào. Mắt tr;;ắ;ng d;;ã.”
Tôi gạt đi: “Chắc mày mơ.”
Nhưng trong lòng bắt đầu thấy bất an. Nhất là khi mẹ tôi – người luôn vững vàng sau mọi biến cố – giờ trở nên thất thần. Bà đ;ố;;t nh;;a;ng khắp nhà, lẩm bẩm những câu gì đó bằng tiếng Nghệ cổ mà tôi nghe không hiểu. Lúc hỏi, bà chỉ đáp:
“Ông bà mình có lời nguyền. Cái bát không chỉ để th;;ờ , là gia tài của cả dòng họ
Tôi bật cười – nửa vì sợ, nửa vì không tin. Nhưng rồi chuyện của chú Dư khiến tôi không thể không suy nghĩ lại.